Theo SSI Research, nhu cầu đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp vẫn là cao. Từ đầu năm đến nay, tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn huy động. Điều này khiến chênh lệch giữa huy động và tín dụng toàn hệ thống được thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, thanh khoản của các ngân hàng thương mại vẫn khá dồi dào. Và NHNN vẫn duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đợt dịch Covid-19 lần thứ 4. Vẫn ở mức thấp và chỉ tăng nhẹ vào cuối năm 2021, lợi suất từ trái phiếu doanh nghiệp vẫn hấp dẫn so với kênh đầu tư tiền gửi.
Thông tin mới đây, NHNN đã nới hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2021 đối với các ngân hàng thêm 2-6%. Tùy theo chất lượng tín dụng và tỷ lệ an toàn vốn của từng ngân hàng. Nhìn chung, hạn mức tín dụng mới vẫn thấp hơn đề xuất của các ngân hàng thương mại và thấp hơn so với cùng kỳ năm 2020. Nhu cầu huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp vẫn ở mức cao. Tuy nhiên vẫn luôn tồn tại rủi ro nên nhà đầu tư cần thận trọng hơn.
Mục lục
Trái phiếu được các doanh nghiệp lựa chọn để làm tài sản đảm bảo
SSI cho biết, thị trường sơ cấp rất sôi động trong quý 2/2021. Có 164 ngàn tỷ trái phiếu doanh nghiệp được phát hành. Gấp 3.7 lần lượng phát hành quý 1/2021 và tăng gần 29% so với cùng kỳ 2020. Bên cạnh đó, chênh lệch lãi suất TPDN và lãi suất tiền gửi duy trì ở mức cao. Đây là động lực chính giúp thị trường TPDN tăng trưởng mạnh trong quý 2.
Theo SSI, hiện tượng chia nhỏ lô phát hành không còn phổ biến. Trái phiếu các doanh nghiệp niêm yết chiếm tỷ trọng cao hơn. Trong 6 tháng đầu năm, có 318 đợt phát hành trái phiếu của 169 doanh nghiệp. Tính bình quân, mỗi đợt phát hành có quy mô 657 tỷ đồng. Cao hơn nhiều so với mức 207 tỷ đồng/đợt của năm 2020.

Nhà đầu tư cá nhân giảm mua (chỉ chiếm 5.2%), ngân hàng và CTCK là những nhà đầu tư mua TPDN nhiều nhất. (Chiếm gần 56% tổng lượng TPDN phát hành nửa đầu năm 2021). Các NHTM là tổ chức phát hành nhiều nhất. Chiếm 41% tổng lượng phát hành quý 2/2021. Nhưng phần nhiều (83%) là trái phiếu kỳ hạn ngắn (2-3 năm) và các NHTM bán chéo cho nhau.
Trái phiếu BĐS có kỳ hạn dài hơn và lãi suất giảm nhẹ trong quý 2/2021. Tính chung nửa đầu 2021, các doanh nghiệp BĐS phát hành 92.3 ngàn tỷ đồng trái phiếu. Với lãi suất bình quân là 10.36%/năm. Các ngân hàng và CTCK đã mua 37.3 ngàn tỷ đồng trái phiếu bất động sản (chiếm 40.4%).
Đánh giá từ SSI
SSI cho biết, cổ phiếu vẫn được dùng khá nhiều để làm tài sản đảm bảo cho trái phiếu. Loại trừ các trái phiếu ngân hàng và định chế tài chính khác hầu hết là không có tài sản đảm bảo. Các TPDN còn lại được phát hành trong nửa đầu năm 2021 có 18.6% được bảo đảm bằng BĐS. 11% được đảm bảo bằng tài sản. 33% được đảm bảo bằng một phần tài sản/bất động sản và một phần là cổ phiếu. 9.3% được đảm bảo hoàn toàn bằng cổ phiếu và 28% là không có tài sản đảm bảo.
Có 29 ngàn tỷ đồng trái phiếu BĐS được đảm bảo hoàn toàn bằng cổ phiếu. Hoặc không có tài sản đảm bảo. Nếu tính cả các trái phiếu BĐS được đảm bảo một phần bằng cổ phiếu. Con số này là gần 60 ngàn tỷ đồng. Chiếm 64% tổng lượng trái phiếu BĐS phát hành 6 tháng đầu năm 2021.
Dự đoán về thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong quý 3
SSI dự báo nhu cầu đầu tư TPDN vẫn cao. Từ đầu năm đến nay, tín dụng luôn tăng trưởng cao hơn huy động. Điều này khiến chênh lệch tiền gửi – tín dụng của toàn hệ thống thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, thanh khoản các NHTM vẫn khá dồi dào. Và NHNN vẫn duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Việc này nhằm để hỗ trợ nền kinh tế đang bị ảnh hưởng bởi đợt dịch Covid-19 lần 4.
Lãi suất tiền gửi có thể vẫn giữ ở mức thấp và chỉ tăng nhẹ vào cuối năm 2021. Lợi tức từ TPDN vẫn hấp dẫn so với kênh đầu tư tiền gửi. Trong quý 2/2021, tài sản ròng của hầu hết các quỹ đầu tư trái phiếu giảm nhẹ. Ghi nhận quý giảm đầu tiên sau nhiều quý tăng trưởng liên tục trước đó.

SSI nhận thấy có hiện tượng các nhà đầu tư giảm nắm giữ trái phiếu để chuyển sang đầu tư cổ phiếu. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán dự báo sẽ kém thuận lợi hơn so với nửa đầu năm 2021. Các nhà đầu tư sẽ quay trở lại kênh đầu tư lãi suất cố định để trú ẩn nên nhu cầu đầu tư TPDN sẽ vẫn ở mức cao.
Cùng với đó, hàng loạt ngân hàng công bố các gói giảm lãi suất từ 0.5-1.5% cho khách hàng theo lời kêu gọi của NHNN. Tuy vậy, việc tiếp cận vốn tín dụng giá rẻ của các NHTM không hề đơn giản đối với các doanh nghiệp. Những đơn vị không nằm trong các nhóm ngành được ưu tiên. Hoặc bị hạn chế về tài sản đảm bảo như các doanh nghiệp bất động sản. Lãi suất phát hành bình quân sẽ vẫn dao động quanh mức 10%/năm.
Rủi ro thị trường TPDN đang tăng lên
SSI dự báo rủi ro với TPDN đang tăng lên. Môi trường lãi suất thấp giúp dòng tiền đầu tư cũng tìm đến kênh BĐS nhiều hơn. Và các doanh nghiệp BĐS tăng mạnh huy động vốn trái phiếu để triển khai các dự án. Là nhóm phát hành nhiều nhất từ 2019 đến nay. Tuy nhiên, dịch bệnh dai dẳng đang khiến cho môi trường kinh doanh của nhóm này bớt thuận lợi.
Cụ thể, thanh khoản của thị trường bất động sản có xu hướng giảm cho thấy sức hấp thụ đang suy yếu dần. Các hoạt động triển khai dự án, sự kiện mở bán bị gián đoạn do dịch bệnh. Hoạt động đầu tư công các dự án cơ sở hạ tầng đang chậm hơn dự kiến. Các yếu tố này làm tăng chi phí vốn do ứ đọng. Ảnh hưởng đến kế hoạch dòng tiền trả nợ gốc lãi trái phiếu của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các trái phiếu năng lượng cũng đang chịu rủi ro khá lớn từ chính sách. Quy hoạch điện VIII đã được Bộ Công thương triển khai xây dựng từ 2019 với định hướng đẩy mạnh năng lượng tái tạo và thu hút đầu tư bằng giá điện. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến các trái phiếu tài trợ các dự án điện mặt trời, điện gió tăng mạnh trong giai đoạn vừa qua. Tổng số trái phiếu năng lượng phát hành từ 2019 đến 30/06/2021 là khoảng 65 ngàn tỷ đồng.
Nhà đầu tư cá nhân giảm mua, ngân hàng và CTCK là những nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp nhiều nhất
Trong nửa đầu năm 2021, các nhà đầu tư cá nhân mua gần 11.000 tỷ đồng trên thị trường sơ cấp. Tập trung vào trái phiếu bất động sản, ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng. Lượng mua này chỉ bằng 47% lượng các nhà đầu tư cá nhân đã mua trong cùng kỳ 2020. Và không phải bất ngờ khi quy định nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp có hiệu lực.
Có tới 55,6% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành là do các ngân hàng và CTCK nắm giữ. Cụ thể, các ngân hàng thương mại mua vào 44.400 tỷ đồng, chiếm 21,3%. Các CTCK mua 71.700 tỷ đồng, chiếm 34,4%. Tổng vốn chủ sở hữu của các CTCK tại 31/12/2020 chỉ khoảng 93 nghìn tỷ đồng. Vậy nên nhiều khả năng CTCK chỉ đứng tên mua trái phiếu doanh nghiệp trên sơ cấp. Nắm giữ ngắn hạn và nhanh chóng phân phối lại cho các nhà đầu tư khác.
Các tổ chức trong nước khác mua 50,8 nghìn tỷ đồng. Chiếm 24,3% bao gồm các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư chứng khoán.