Ngân hàng và CTCK đóng vai trò quan trọng trong thị trường TPDN

Tại thị trường tài chính Việt Nam vẫn chưa có quy định rõ ràng về việc tách bạch hoạt động của ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Trong khi ở các nước phát triển thì đây là điều cần thiết để hạn chế rủi ro. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp chưa phân phối hết đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng. Bởi theo quy định, trái phiếu doanh nghiệp được tính vào dư nợ tín dụng. Khi đó, ngân hàng từ vai trò tư vấn phát hành trở thành nhà cho vay hoặc nhà đầu tư bất đắc dĩ. Do đó tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Nhận định của Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Trí Hiếu về vai trò của ngân hàng và CTCK

“Các ngân hàng chỉ là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành mà không chịu trách nhiệm về việc doanh nghiệp có hoàn trả được gốc. Lãi trái phiếu khi đến hạn hay không. Điều này đồng nghĩa, rủi ro với nhà đầu tư rất lớn nếu doanh nghiệp phát hành vỡ nợ”.

Đó là nhận định của Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Trí Hiếu tại tọa đàm trực tuyến “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Cân bằng lợi ích giữa nhà phát hành và nhà đầu tư” do VnEconomy tổ chức sáng ngày 16/08.

Theo ông Hiếu: “Tại Mỹ, hệ thống ngân hàng chia làm hai phân khúc gồm ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Trong đó, chỉ có ngân hàng đầu tư mới được phép hỗ trợ phát hành trái phiếu. Trái lại, tại Việt Nam, các ngân hàng rất đa chức năng. Đồng thời vừa là ngân hàng thương mại vừa là ngân hàng đầu tư. Chính vì thế ngân hàng cũng có chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp phát hành trái phiếu.”

Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Trí Hiếu
Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Trí Hiếu

Vai trò quan trọng của ngân hàng với thị trường TPDN

Ngân hàng hỗ trợ phân phối trái phiếu

“Thời gian qua, sự hỗ trợ của các ngân hàng đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam rất quan trọng. Họ hỗ trợ về kỹ thuật để các doanh nghiệp đủ điều kiện phát hành. Sau đó, ngân hàng còn hỗ trợ phân phối lượng trái phiếu đó. Nhờ vậy, trong 6 tháng đầu năm nay, bất chấp dịch bệnh. Lượng trái phiếu doanh nghiệp vẫn tăng trưởng rất mạnh.”, ông Hiếu cho hay.

Hiện người dân, nhà đầu tư nhỏ lẻ đang tiếp cận trái phiếu doanh nghiệp. Bởi vì họ thấy bóng dáng của ngân hàng đứng đằng sau trái phiếu. Tuy nhiên, ông Hiếu nhấn mạnh. Chỉ số ít trái phiếu được ngân hàng bảo lãnh thanh toán. Tức nhà đầu tư mua trái phiếu của nhà phát hành. Trong trường hợp rủi ro, nhà phát hành không trả được nợ, thì ngân hàng sẽ trả thay. Như vậy, phần lớn số trái phiếu còn lại chỉ được bảo lãnh phát hành. Nghĩa là, nếu phát hành không hết, ngân hàng sẽ cam kết mua toàn bộ số trái phiếu còn lại.

Lượng lớn trái phiếu không có tài sản đảm bảo

Ngoài ra, chuyên gia này còn cho rằng, lượng trái phiếu đang hiện hành chủ yếu không có tài sản bảo đảm hoặc đảm bảo bằng cổ phiếu. Trong khi, cổ phiếu thì biến động theo thị trường. Trường hợp là tài sản bảo đảm khác thì nhà đầu tư cũng không có quyền lực để thu giữ tài sản bảo đảm như ngân hàng.

Thậm chí, khi doanh nghiệp bị vỡ nợ. Tài sản bảo đảm cũng sẽ phải trả theo thứ tự ưu tiên. Bao gồm: thuế cho Chính phủ; trả lương cho người lao động; trả nợ ngân hàng… gần cuối cùng mới đến người mua trái phiếu. Từ đó, ông Hiếu đưa ra khuyến nghị cần phải đẩy mạnh việc xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Điều này để hạn chế được rủi ro cho nhà đầu tư.

"<yoastmark
Sự hỗ trợ của ngân hàng đối với thị trường TPDN rất quan trọng

Nhận định của ông Trần Tuấn Anh

Ở góc nhìn khác, ông Trần Tuấn Anh, Giám đốc Kinh doanh, Công ty chứng khoán Mirae Asset ý kiến. Trái phiếu doanh nghiệp không phải hướng duy nhất của các doanh nghiệp đang muốn huy động vốn hiện nay.

Ông Tuấn Anh lý giải, công ty chứng khoán (CTCK) có hai vai trò trong thị trường trái phiếu. Thứ nhất là tư vấn cho doanh nghiệp để phát hành thành công. Thứ hai, phân phối trái phiếu cho nhà đầu tư.

“Trong đó, với vai trò tư vấn, chúng tôi rất cần “may đo” theo đúng đề bài mà doanh nghiệp mong muốn phát hành. Đầu tiên chúng tôi phải xét đến các yếu tố như sức khỏe tài chính, tài sản đảm bảo, khả năng tiếp cận vốn tín dụng… Từ đó giải pháp tài chính tổng thể sẽ được đưa ra. Và trái phiếu doanh nghiệp chỉ là một giải pháp nằm trong đó”, ông Tuấn Anh nói.

Ví dụ cụ thể

Vị giám đốc kinh doanh lấy ví dụ: “Với một công ty đầu tư hạ tầng. Dự án thường kéo dài từ 10-15 năm thì hoàn toàn có thể vay vốn ngoại tệ. Chúng tôi có nhiều định chế tài chính linh hoạt, cả trong và ngoài nước. Họ chuyên về đầu tư phát triển hạ tầng và sẵn sàng cho vay. Và phương án này sẽ hỗ trợ một phần nhu cầu vốn. Thay vì đổ dồn gánh nặng vào trái phiếu doanh nghiệp.

Sau đó, phần phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Chúng tôi sẽ giúp họ phân phối. Đối tượng chúng tôi nhắm đến là những người, tổ chức có nhu cầu đầu tư dài hạn như doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp. Những đối tượng trong chuỗi giá trị đã nắm rõ khả năng tài chính của công ty phát hành trái phiếu…

Cần sớm phân định rõ ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại
Cần sớm phân định rõ ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

Hoặc, với công ty công nghệ, có thể chúng tôi sẽ giúp họ phát hành trái phiếu trước. Sau đó mới vay vốn từ nước ngoài. Việc phát hành trái phiếu dù nhỏ nhưng nhằm khẳng định rằng họ có đầy đủ khả năng huy động được nguồn vốn trong nước. Đây là bước đệm rất quan trọng cho doanh nghiệp huy động muốn tiếp cận vốn nước ngoài.”

Đồng thời, ông Tuấn Anh cũng không quên lưu ý. Nghiệp vụ phân phối sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp của công ty chứng khoán hay ngân hàng chỉ là hoạt động bình thường. Và tất cả đều tuân thủ các quy định hiện hành.

Sớm phân định rõ ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

Nếu như ở các nước phát triển, việc tách bạch hoạt động của NHTM và ngân hàng đầu tư là thật sự cần thiết. Nhằm hạn chế rủi ro cho thị trường tài chính. Thì Việt Nam hiện nay chưa có một quy định rõ ràng. Về cơ bản, sự khác biệt giữa hai loại hình này là NHTM nhận tiền gửi trực tiếp từ khách hàng. Sau đó cho vay lại, còn ngân hàng đầu tư huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Sau đó lại mua chính chứng khoán mà doanh nghiệp phát hành. Hoặc giúp doanh nghiệp phát hành chứng khoán cho các tổ chức, cá nhân khác.

Bên cạnh một số CTCK có thiên hướng hoạt động như một ngân hàng đầu tư. Nhìn vào hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua. Chúng ta có thể thấy các tổ chức này ngoài các nghiệp vụ NHTM thông thường ngày càng lấn sân sâu hơn vào nghiệp vụ đầu tư. Thể hiện qua việc phát hành trái phiếu để huy động vốn dài hạn. Sau đó trực tiếp hoặc kết hợp với công ty con là các CTCK tư vấn, bảo lãnh phát hành TPDN. Sau đó đẩy rủi ro của những TPDN này về cho các nhà đầu tư khác. Hoặc thậm chí trực tiếp đầu tư nếu không phân phối hết.